15 loài động vật tuyệt chủng trước đây đã được phát hiện lại

Có vài điều bi thảm về môi trường hơn là sự mất mát của một loài thông qua sự tuyệt chủng. Tuy nhiên, may mắn thay, đã có những dịp mà các loài được cho là tuyệt chủng được khám phá lại. Một số ví dụ về động vật như vậy được tìm thấy dưới đây.

1. Rắn Adder Albany (Bitis cornuta albanica)

Rắn adder Albany là một loài phụ viper cực kỳ quý hiếm của Bitis cornuta được tìm thấy ở phía nam và tỉnh Đông Cape ở Nam Phi. Con rắn 8, 9 inch có màu nâu đỏ đến nâu với một số vết sưng trên mắt. Loài này đã biến mất trong hơn một thập kỷ và thường được cho là đã tuyệt chủng cho đến khi bốn loài còn sống và một loài chết được tìm thấy vào năm 2016 và đầu năm 2017. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chỉ nhìn thấy mười hai mẫu vật kể từ khi phát hiện ban đầu của con rắn vào năm 1937.

2. Quoll Đông (Dasyurus viverrinus)

Còn được gọi là mèo bản địa phía đông, quoll phía đông là một loài thú có túi cỡ trung bình có nguồn gốc từ Úc. Những thú có túi này phổ biến rộng rãi và được tìm thấy tại Tasmania, nhưng chúng đã tuyệt chủng ở đại lục từ những năm 1960. Quoll phía đông là một trong sáu loài quoll còn tồn tại, nhưng các nhà sinh vật học đã giới thiệu lại chúng ở Tasmania, và hiện tại, chúng có mặt ở đảo Bruny.

3. Ếch cây Jerdon (Frankixalus jerdonii)

Ếch cây là một loài dài 20 inch độc đáo sinh sản trên cây. Thomas Jerdon đã phát hiện ra loài này vào năm 1870 trong rừng Darjeeling. Con ếch đã được phân loại lại bốn lần kể từ khi phát hiện ra nó và nó đã tuyệt chủng cho đến khi Sathyabhama Biju và nhóm các nhà khoa học của ông khám phá lại nó trong khu rừng phía đông bắc Ấn Độ trong cuộc thám hiểm ba năm bắt đầu vào năm 2007.

4. Người bập bẹ của Myanmar Jerdon (Chrysomma altirostre altirostre)

Khướu đầu chó là một loài nhỏ màu nâu giống như chim sẻ trong nhà. Con chim ban đầu cũng được Thomas Jerdon mô tả vào năm 1862, với lần nhìn thấy cuối cùng xảy ra vào năm 1941. Vào tháng 5 năm 2014, một nhóm các nhà khoa học ở Miến Điện đã nghe thấy tiếng kêu của ếch và sau khi điều tra âm thanh kỳ dị, họ đã phát hiện ra một con khỉ đầu chó trưởng thành.

5. Thằn lằn Pinocchio (Anolis proboscis)

Thằn lằn pinocchio là một loài nhỏ thuộc chi Anolis thuộc họ Dactyloidae . Một con thằn lằn Pinocchio đực được phát hiện ở Ecuador vào năm 1953 và được mô tả chính thức vào năm 1956 bởi Orces và Peter. Sau đó, loài này đã được phát hiện trong nhiều năm cho đến khi nó được phát hiện vào năm 2007. Hiện tại, môi trường sống của nó là thảm thực vật nhỏ mọc dọc theo đường cao tốc ở Ecuador và IUCN (liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên) đã xếp nó vào tình trạng nguy cấp.

6. Hươu xạ Kashmir (Moschus cupreus)

Loài hươu xạ xạ cao hai feet có nguồn gốc từ Pakistan, Ấn Độ và Afghanistan. Trước đây nó được mô tả là một loài phụ của hươu xạ xạ. Hươu Kashmir là một trong bảy loài cư trú ở châu Á. Trên thực tế, nó được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng ở Pakistan và đã bị coi là tuyệt chủng kể từ lần cuối nhìn thấy vào năm 1948. Tuy nhiên, ba loài đã được tìm thấy vào năm 2009 trong một cuộc khảo sát xã hội bảo tồn động vật hoang dã ở Nuristan, Afghanistan.

7. Chồn chân đen (Mustela nigripes)

Còn được gọi là thợ săn chó thảo nguyên, chồn chân đen là một loài ria mép sống ở trung tâm Bắc Mỹ. Năm 1851 bởi Bachman và Audubon đã phát hiện ra con chồn chân đen, nhưng dân số của nó đã giảm trong thế kỷ 20 cho đến năm 1987 khi nó bị tuyệt chủng trong tự nhiên. Sau đó, nó đã được giới thiệu lại ở 8 tiểu bang và Mexico bởi một chương trình nhân giống nuôi nhốt từ năm 1991 đến năm 2008. Hiện tại, có hơn 1.000 con chồn chân đen trưởng thành trong tự nhiên và UNICEF đã liệt kê nó là loài có nguy cơ tuyệt chủng.

8. Tắc kè mào (Correlophus ciliatus)

Tắc kè mào là một loài tắc kè có nguồn gốc ở khu vực phía nam của New Caledonia. Loài này được phát hiện bởi Alphone Guichenot, nhà động vật học người Pháp, vào năm 1866. Tắc kè khá phổ biến trong buôn bán thú cưng nhưng được coi là tuyệt chủng trong tự nhiên cho đến khi phát hiện lại vào năm 1994 cùng với các loài Rhacodactylus khác.

9. Kareeee đen (Oncorhynchus kawamurae)

Oncoryhynchus kawamurae, còn được gọi là Black kokanee, là một loài cá hồi Nhật Bản được cho là đã tuyệt chủng vào năm 1940. Các nhà sinh học coi nó đã tuyệt chủng sau khi giới thiệu một dự án thủy điện trong môi trường sống của nó (Hồ Tazawa) làm tăng mức độ axit của hồ. . Trước khi lắp đặt một nhà máy thủy điện trong hồ, các nhà sinh học đã chuyển hơn 100.000 quả trứng của loài này đến phần phía nam của hồ Tazawa, với hy vọng cứu được loài này, nhưng nó được cho là không thành công cho đến khi một nhóm các nhà sinh vật học bao gồm Sakana- Kun đã tái phát hiện loài này ở hồ Saiko vào năm 2010.

10. Pygmy tarsier (Tarsius pumilus)

Loài linh dương đầu bò là loài linh trưởng sống về đêm có nguồn gốc từ Sulawesi, Indonesia. Loài này được cho là tuyệt chủng vào đầu thế kỷ 20, cho đến năm 2000 khi một nhà khoa học người Indonesia giết chết một con trong khi bẫy một số con chuột. Một nhóm các nhà nghiên cứu do Tiến sĩ Gursky và Nanda phát triển đã tìm thấy con trăn đầu tiên còn sống, sau hơn 80 năm, vào tháng 8 năm 2008 tại công viên quốc gia Lore-Lindu.

11. Skink khủng bố (Phoboscincus bocourti)

Còn được gọi là skink tuyệt vời của Bocourt, skink khủng bố là một loài skink đặc hữu có nguồn gốc từ hòn đảo nhỏ thông ngoài khơi New Caledonia. Skink khủng bố được mô tả vào khoảng năm 1876, và nó được coi là tuyệt chủng cho đến năm 1993 khi nó được nhìn thấy một lần nữa. Do dân số và môi trường sống nhỏ, IUCN tuyên bố nó là loài có nguy cơ tuyệt chủng.

12. Solenodon Cuba (Solenodon cubanus)

Solenodon Cuba thuộc họ Solonodontidae, và nó có nguồn gốc từ Cuba. Solenodon Cuba khá bất thường trong số các động vật khác vì nước bọt của nó có nọc độc. Kể từ khi được phát hiện bởi Wilhelm Peters vào năm 1861, chỉ có 36 loài đã bị bắt. Vì không có loài nào được nhìn thấy từ năm 1890, nhiều người tin rằng nó đã tuyệt chủng, nhưng ba loài đã bị bắt từ năm 1974 đến 1975. Nhiều cuộc điều tra được tiến hành đã xác nhận rằng loài này chỉ tồn tại ở nhiều nơi ở tỉnh Oriente, Cuba.

13. Con cóc chân Huila (Atelopus ebenoides)

Ebenoide của linh dương là một loài cóc thực sự được tìm thấy trong các bộ phận Huila, Cauca và Boyaca ở Colombia. Các loài phía nam đã không được nhìn thấy kể từ năm 1992 trong khi miền bắc đã mất tích từ năm 1995. Chúng được coi là tuyệt chủng cho đến năm 2006 khi chúng được phát hiện.

14. Vẹt đêm (Pezoporusernidentalis)

Vẹt đêm là một loài chim nhỏ có nguồn gốc từ Úc và nó thường được gọi là loài chim bí ẩn và khó nắm bắt nhất trên trái đất khi nó không được nhìn thấy từ năm 1912 đến 1979. Dân số chính xác của loài này dao động từ 50 đến 249 và John Young đã lấy bằng chứng hình ảnh đầu tiên về sự tồn tại của nó vào tháng 7 năm 2013.

15. Thú cưng Bermuda (Pterodroma cahow)

Thường được biết đến với cái tên cahow ở Bermuda, petrel Bermuda là một loài chim biển làm tổ về đêm, là loài chim quốc gia của vùng Bermuda. Loài chim này thậm chí còn được đặc trưng trên tiền tệ của Bermuda. Nó được coi là loài chim hiếm nhất trên trái đất, và trong hơn ba thế kỷ, nó đã bị tuyệt chủng. Bermuda Petrel được tìm thấy vào năm 1951 và một chương trình bảo tồn quốc gia đã giúp tăng dân số. Hiện tại, các nhà khoa học đang nghiên cứu mở rộng môi trường sống của nó.