Bảy loài còn tồn tại của họ lạc đà

Các loài còn tồn tại đề cập đến các sinh vật hiện đang sống. Những động vật thuộc họ Camelidae có cổ dài và là động vật ăn cỏ lớn. Lạc đà được coi là động vật móng guốc chẵn, có nghĩa là chúng có ngón chân riêng biệt trên bàn chân. Điều này khác với ngựa chẳng hạn, người chỉ có một móng guốc rắn.

Bài viết này sẽ xem xét kỹ hơn về 7 loài sống của họ Camelidae, bao gồm lạc đà Bactrian, lạc đà Bactrian hoang dã, lạc đà dromedary, llamas, guanacos, alpacas và Abbeyuñas.

7. Lạc đà Bactrian

Một con lạc đà Bactrian ở Mông Cổ.

Lạc đà Bactrian có nguồn gốc từ vùng thảo nguyên ở Trung Á, nơi phạm vi của nó trải dài từ những ngọn núi đá đến những sa mạc khô cằn. Lạc đà Bactrian là động vật lớn nhất sống trong phạm vi này. Nó được đặc trưng bởi cặp bướu trên lưng. Loài này chủ yếu được thuần hóa và có dân số khoảng 2 triệu. Lạc đà Bactrian có thể chịu được nhiệt độ cực thấp, điều kiện khô cằn và các khu vực có độ cao lớn. Những đặc điểm này đã làm cho nó trở thành một động vật gói có giá trị trong hàng trăm năm. Trên thực tế, con lạc đà này là động vật đóng gói chính được sử dụng để vận chuyển hàng hóa dọc theo Con đường tơ lụa.

Loài này phát triển đến chiều cao vai trung bình từ 5, 9 đến 7, 5 feet và thường dài từ 7, 38 đến 11, 48 feet. Đây là loài lạc đà sống lớn nhất trên thế giới.

6. Lạc đà Bactrian hoang dã

Một gói lạc đà hoang dã ở Mông Cổ.

Lạc đà Bactrian hoang dã có nguồn gốc từ khu vực phía bắc của Trung Quốc và khu vực phía nam của Mông Cổ, nơi nó di chuyển giữa các dãy núi và đồng bằng khô cằn để tìm kiếm thức ăn và nước uống. Giống như lạc đà Bactrian, loài này có hai bướu mọc lên từ lưng. Hai loài động vật được coi là họ hàng gần gũi, mỗi loài đã phát triển riêng biệt trong khoảng từ 0 đến 1, 5 triệu năm trước. Tình trạng bảo tồn của lạc đà Bactrian hoang dã được coi là cực kỳ nguy cấp, với dân số chỉ còn lại khoảng 1.400 con trong tự nhiên. Mối đe dọa chính cho sự sống còn của nó là săn trộm.

Bactrian hoang dã sống theo bầy đàn có thể từ 6 đến 30 thành viên, tùy thuộc vào nguồn thức ăn và nước uống. Lỗ mũi của nó dài và rất mỏng và nó có một bộ lông mi dài gấp đôi. Cả hai đặc điểm này bảo vệ loài này khỏi gió mạnh và thổi cát bão tố sa mạc.

5. Lạc đà hoặc lạc đà Ả Rập

Một con lạc đà Ả Rập ở Ô-Man.

Lạc đà Dromedary có nguồn gốc từ bán đảo Ả Rập và miền nam châu Á. Loài này đã được thuần hóa từ thời cổ đại và không xuất hiện trong tự nhiên trong ít nhất 2 nghìn năm. Đặc điểm dễ nhận biết nhất của nó là cái bướu đơn lẻ mà nó nhô ra từ lưng. Con lạc đà này có thể mất tới 30% lượng nước và do đó có thể chịu được điều kiện sa mạc khô cằn. Trên khắp khu vực Thế giới cũ của Châu Phi, lạc đà Dromedary được sử dụng để vận chuyển và làm động vật đóng gói. Nhiều nhóm bản địa cũng dựa vào loài này như một nguồn sữa và thịt.

Loài này có chiều cao vai trung bình từ 5, 6 đến 6, 6 feet và trọng lượng trung bình ở bất cứ đâu từ 660 đến 1, 320 pounds. Con đực lớn hơn con cái.

4. Llama

Một llama trước Machu Picchu.

Llama có nguồn gốc từ vùng núi Andes ở Nam Mỹ, nhưng được cho là có nguồn gốc ở vùng đồng bằng Bắc Mỹ hơn 40 triệu năm trước. Ngày nay, nó được coi là một loài thuần hóa và có dân số khoảng 7 triệu. Loài này đã được sử dụng làm động vật đóng gói và nguồn len từ trước thời kỳ thuộc địa của Tây Ban Nha. Nó được đặc trưng bởi cổ dài và len của nó; đuôi ngắn, cong; và tai dài, hướng nội. Bộ lông của nó xuất hiện với một số màu sắc, bao gồm: nâu, trắng, đen, xám và vá.

Llama phát triển chiều cao từ 5, 6 đến 5, 9 feet và nặng bất cứ nơi nào từ 290 đến 440 pounds. Như một con thú gói, loài này có thể thực hiện từ 25 đến 30% trọng lượng cơ thể của nó đối với khoảng cách lên tới 8 dặm.

3. guanaco

Một guanaco ở Chile.

Guanaco có nguồn gốc từ vùng núi Andes và vùng altiplano của Nam Mỹ, nơi quy mô dân số của nó là từ 400.000 đến 600.000. Loài này là hoang dã và được cho là tổ tiên của llama hiện đại, thuần hóa. Bộ lông của nó xuất hiện trong một màu nâu đến nâu đỏ với màu trắng ở dưới bụng. Nó có thể được nhận ra bởi khuôn mặt màu xám và đôi tai nhỏ, thẳng. Ở một số nước, len guanaco được đánh giá cao. Ví dụ, ở Chile, loài này có thể bị săn bắn làm nguồn thức ăn cho con người.

Loài này có chiều cao từ 3 feet và 3 inch đến 3 feet và 11 inch, làm cho nó nhỏ hơn llama thuần hóa. Nó nặng từ 200 đến 310 pounds.

2. Alpica

Một alpaca.

Alpaca là một loài lạc đà khác có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Loài này đã được thuần hóa hoàn toàn và được đánh giá không phải là một động vật đóng gói, mà là lông cừu mềm. Người alpaca có thể sống ở độ cao cực kỳ cao, nơi cộng đồng địa phương sử dụng len để sản xuất mũ dệt kim, găng tay, khăn quàng cổ, áo len, chăn. và khăn choàng. Ngoài ra, các cộng đồng này thường dựa vào thịt alpaca như một nguồn thực phẩm. Loài này có nhiều màu sắc (32 theo tiêu chuẩn Peru) từ trắng đến đen và nâu đến nâu đỏ. Alpacas và llamas có thể sinh sản thành công, tạo ra loài huarizo vô trùng.

Người alpaca phát triển đến chiều cao vai từ 32 đến 39 inch, nhỏ hơn đáng kể so với llama tương đối của nó. Nó thường nặng từ 106 đến 185 pounds.

1. Vicu

Một cha mẹ ở Argentina.

Giống chó dại, giống như guanaco, là một loài lạc đà hoang dã. Nó có nguồn gốc từ vùng cao nguyên Andes của Nam Mỹ và là động vật quốc gia của Peru. Loài này tạo ra một loại len rất mịn, mềm và ấm, chỉ có thể lấy được từ cùng một loài ba năm một lần. Trong thời kỳ đế chế Inca, chỉ có hoàng gia Inca mới được phép mặc đồ len lông cừu. Năm 1974, loài này được coi là có nguy cơ tuyệt chủng và có dân số chỉ 6.000. Do những nỗ lực bảo tồn thành công, hiện nay loài linh cẩu này có khoảng 350.000 con và nằm ngoài danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng.

Loài này nhỏ hơn guanaco, phát triển đến chiều cao vai trung bình khoảng 3 feet và chiều dài khoảng 5 feet. Nó nặng dưới 150 pounds.