Người Narwhals sống ở đâu?

Cá voi là một loại cá voi được đặc trưng bởi những chiếc ngà lớn nhô ra từ răng nanh của chúng. Các nhà khoa học tin rằng ngà được sử dụng để chiến đấu hoặc là màn hình trực quan về sự thống trị của con đực để thu hút con cái; các nhiệm vụ chủ yếu được tìm thấy trong các loài đực. Tuy nhiên, một số báo cáo đã chỉ ra rằng ngà được sử dụng để vượt qua băng và để bảo vệ bản thân khỏi những kẻ săn mồi như cá voi orca và gấu bắc cực. Những loài này được phân loại thuộc họ Monodontidae cùng với cá voi beluga. Kỳ lân thường được gọi là kỳ lân của biển. Theo báo cáo của Liên đoàn Động vật hoang dã Thế giới, có hơn 80.000 kỳ lân trên toàn thế giới. Người Narwhals được biết là dành phần lớn cuộc sống của họ trong vùng nước lạnh của Biển Bắc cực. Không giống như những con cá voi khác, kỳ lân biển hiếm khi di cư.

Phân phối của Narwhals

Những loài này thường được tìm thấy ở vùng biển Bắc Cực của Nga, Na Uy, Greenland và Canada. Hai phần ba số kỳ lân ở Canada trong khi số còn lại sống ở East Greenland. Kỳ lân có tầm quan trọng khác nhau; ví dụ, ở Canada, kỳ lân biển rất cần thiết cho truyền thống và văn hóa của thổ dân Canada. Kỳ lân biển thường được săn lùng để lấy ngà và da. Giá ngà voi quốc tế đã khiến những con cá voi này gặp nguy hiểm lớn. Mặc dù chúng thường không bị đe dọa, loài này phải đối mặt với một mối đe dọa đáng kể từ các yếu tố như thay đổi khí hậu và sự cố tràn dầu. Với những tiến bộ trong công nghệ, nhiều tàu vượt biển Bắc cực, làm tăng khả năng va chạm dẫn đến tiếng ồn làm thay đổi giao tiếp thường xuyên của cá voi.

Môi trường sống của người Narwhals

Như đã nêu ở trên, kỳ lân biển chỉ được tìm thấy ở vùng biển Bắc cực băng giá; tuy nhiên, những con cá voi này được biết là chiếm mực nước khác nhau tùy theo mùa. Ví dụ, trong mùa hè, kỳ lân biển được quan sát để chiếm các khu vực ven biển. Họ được cho là chiếm các khu vực được bảo vệ này để dễ dàng tiếp cận với thực phẩm. Trong mùa thu hoặc mùa đông, những con cá voi này thích độ sâu của nước từ 1.000 đến 5.000 mét. Có thể quan sát thấy rằng kỳ lân biển thích những khu vực có nước mở và mật độ băng cao. Thời kỳ sinh sản của kỳ lân biển thường khác nhau giữa các năm và địa điểm; Tuy nhiên, những con cá voi này thường sinh sản vào mùa xuân. Thời gian mang thai nói chung là từ mười bốn đến mười lăm tháng. Con cái trưởng thành sớm hơn con đực và chúng có khả năng sinh con sau bảy năm trong khi con đực đạt đến độ chín từ bảy đến mười ba năm. Kỳ lân là loài ăn thịt trong tự nhiên; chúng ăn chủ yếu là cá, mực, bạch tuộc và động vật giáp xác.

Đặc điểm chung

Loài kỳ lân nói chung là những con cá voi có kích thước trung bình với ngà nhô ra và không có vây lưng. Chúng có khả năng tạo ra âm thanh riêng biệt, và chúng được biết là rất nhạy cảm với tiếng ồn dưới nước. Họ đã phát triển các kỹ năng giao tiếp, và họ được biết là tạo ra âm thanh nhấp để định vị và định hướng tiếng vang. Các kỹ thuật giao tiếp khác được những con cá voi này áp dụng bao gồm gầm gừ, ré lên và huýt sáo. Họ có khả năng phát hiện những con tàu ở xa tới tám mươi km.