Nhà nước Hoa Kỳ nào đã từng là một quốc gia độc lập?

Texas là tiểu bang duy nhất là một quốc gia (được gọi là Cộng hòa Texas), trước khi trở thành một phần của Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 2 năm 1846. Cộng hòa Texas là một quốc gia có chủ quyền giành được độc lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1836. Một số trong số những người hàng xóm của họ bao gồm bang Utah Colorado, Kansas và Oklahoma ở phía bắc, Arkansas ở phía tây nam, Louisiana ở phía đông, Vịnh Mexico ở phía đông nam và Mexico ở phía tây nam và phía tây. Công dân Cộng hòa Texas được gọi là người Texas.

Lịch sử Texas trước khi giành độc lập

Về mặt lịch sử, Texas là một trong những tỉnh của Tây Ban Nha được gọi là Tây Ban Nha-Texas, và họ được khuyến khích thiết lập cư trú tại khu vực này bởi lợi ích cạnh tranh của Pháp. Pháp đã nhượng lại hầu hết các yêu sách ở Bắc Mỹ bao gồm Texas cho Tây Ban Nha Louisiana vào năm 1762, nhưng trong thời kỳ Napoleon (1799 đến 1803), Louisiana đã được trả lại cho người Pháp đã bán nó cho Hoa Kỳ. Tình trạng của Texas trong quá trình chuyển nhượng này vẫn chưa được biết, nhưng hiệp ước Adam-Onis đã giúp khi người Tây Ban Nha đầu hàng Florida sang Hoa Kỳ do đó thiết lập một ranh giới rõ ràng giữa Louisiana và Texas. Texas cùng với Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha sau khi ký hiệp ước Cordoba vào ngày 24 tháng 8 năm 1821.

Trong khi Mexico đang chuyển từ thuộc địa sang một quốc gia độc lập, một nhóm người định cư do Stephen Austin lãnh đạo đã thương lượng quyền sống ở Texas với thống đốc Tây Ban Nha. Sau đó, ông đi du lịch tới New Mexico để yêu cầu hỗ trợ định cư ở Texas. Việc tạo ra Mexico Texas trùng khớp với sự định cư của người Mỹ dưới Austin, và điều này dẫn đến sự thù địch giữa những người định cư và chính phủ Mexico. Ngay sau đó, EmpresFS di cư đến Texas. Xung đột giữa hai nhóm này dẫn đến việc Tổng thống Bustamante cấm nhập cư Mỹ vào Mexico Texas, đã châm ngòi cho cuộc Cách mạng Texas kết thúc với việc Texas giành được độc lập.

Texas độc lập

Austin, cha đẻ của Texas, qua đời vào ngày 27 tháng 12 năm 1836, sau khi làm thư ký của tiểu bang trong hai tháng. Năm 1836, năm thị trấn bao gồm Columbia, Velasco, Harrisburg, Galveston và Washington-on-Brazos, từng là thủ đô của Cộng hòa Texas. Năm 1837, Tổng thống Houston (tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Texas) đã chuyển thành phố thủ đô đến Houston. Thị trấn Austin trở thành thủ đô vào năm 1839. Lá cờ đầu tiên của Texas là biểu ngữ Burnet được thay thế bằng cờ ngôi sao Lone năm 1839. Chính trị trong nước nằm giữa hai phe '; đảng quốc gia dưới thời Lamar và các đối thủ của họ, những người ủng hộ việc sáp nhập Texas vào Hoa Kỳ, dưới Houston.

Chính quyền

Sau khi giành độc lập, người dân Texas đã bầu ra một đại hội gồm 29 đại biểu và 14 thượng nghị sĩ trong cuộc bầu cử tháng 9 năm 1836. Hiến pháp của họ cho phép tổng thống đầu tiên chỉ phục vụ trong hai năm trong khi người kia phục vụ trong ba năm. Mọi cử tri đủ điều kiện ở Texas phải là công dân, và theo hiến pháp, không phải tất cả những người sống ở Texas trước ngày 2 tháng 3 năm 1836 đều trở thành công dân.

Quan hệ ngoại giao

Tổng thống Jackson công nhận Cộng hòa Texas là một quốc gia độc lập và thậm chí đã chọn một quan chức đại diện cho ông tại quốc gia mới vào ngày 3 tháng 3 năm 1837. Pháp chính thức công nhận Texas độc lập vào ngày 25 tháng 9 năm 1839. Texas nhận được sự công nhận ngoại giao từ các quốc gia khác bao gồm cả Hà Lan và Bỉ.

Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua dự luật cho phép họ sáp nhập Texas vào ngày 28 tháng 2 năm 1845 và được Tổng thống Tyler ký vào luật ngày 1 tháng 3 năm 1845. Đề xuất này được đưa ra bỏ phiếu và hầu hết các cử tri đã chấp thuận lời đề nghị và một hiến pháp mới cho phép chế độ nô lệ. Cộng hòa Texas trở thành một tiểu bang của Mỹ vào ngày 29 tháng 12 năm 1845.