Sự khác biệt giữa suy thoái và suy thoái là gì?

Các thuật ngữ suy thoáitrầm cảm đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau trong kinh tế. Tuy nhiên, các điều khoản có nghĩa là hai điều khác nhau.

Suy thoái là gì?

Suy thoái kinh tế là suy thoái kinh tế nói chung kéo dài hơn một vài tháng . Nó thường xuất hiện dưới dạng giảm doanh số bán lẻ, thu nhập, năng suất và việc làm. Một số yếu tố có thể kích hoạt suy thoái từ lạm phát, lãi suất cao, giảm lương và giảm niềm tin của người tiêu dùng. Định nghĩa về suy thoái thường khác nhau giữa các quốc gia. Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) đo lường các yếu tố nói trên hàng tháng để phát hiện suy thoái kinh tế. Tại Vương quốc Anh và hầu hết châu Âu, một cuộc suy thoái được tuyên bố sau khi tăng trưởng kinh tế tiêu cực đã được ghi nhận trong hai quý liên tiếp.

Một cuộc suy thoái dẫn đến một số tác dụng không mong muốn. Thất nghiệp tăng, làm giảm sức mua của người tiêu dùng. Nó cũng ảnh hưởng đến lĩnh vực nhà ở vì những người không thể thanh toán thế chấp bị mất nhà cửa. Nhiều doanh nghiệp phá sản khi chứng kiến ​​các đơn đặt hàng kinh doanh giảm xuống. Chính phủ đôi khi bảo lãnh cho các tổ chức tài chính lớn trên bờ vực phá sản. Suy thoái thường được xem là một sự xuất hiện bình thường trong chu kỳ kinh doanh.

Trầm cảm là gì?

Thuật ngữ trầm cảm biểu thị một thời gian dài của hoạt động kinh tế chậm lại . Trong giai đoạn như vậy, có tình trạng thất nghiệp lan rộng, đầu tư thấp, năng suất thấp cho các công ty và chi tiêu tiêu dùng thấp. Nhiều công ty báo cáo các vụ phá sản trong khi các công ty khác thu hẹp và sa thải nhân viên. Các đặc điểm khác của trầm cảm bao gồm giảm tín dụng khả dụng, giảm thương mại và thương mại bao gồm thương mại quốc tế, giảm phát giá, biến động bền vững về giá trị của tiền tệ và thất bại của ngân hàng. Một trầm cảm đôi khi được đóng khung như một hình thức suy thoái nghiêm trọng và nghiêm trọng, có nghĩa là hoạt động kinh tế thấp kéo dài từ hai năm trở lên và GDP có thể giảm hơn 10%. Phục hồi từ trầm cảm thường chậm, và hầu hết các lần, cần có sự can thiệp của chính phủ. Trong những năm trước thế kỷ 18, trầm cảm được gây ra bởi các yếu tố phi kinh tế bao gồm chiến tranh và mất mùa do thời tiết xấu. Từ thế kỷ 19, trầm cảm liên quan trực tiếp đến các yếu tố thương mại, đầu cơ và công nghiệp.

Ví dụ về trầm cảm

Cuộc đại khủng hoảng bắt đầu ở Mỹ vào năm 1929. Trầm cảm được kích hoạt bởi sự sụp đổ của thị trường chứng khoán nước này. Đến năm 1933, tỷ lệ thất nghiệp trong cả nước đã lên tới 25%. Sự suy thoái lan sang các nước tư bản khác, và đó cũng là một nguyên nhân khiến các đồng tiền chính quay lưng lại với tiêu chuẩn vàng. Trong cuộc Đại khủng hoảng, danh mục đầu tư của nhiều nhà đầu tư đã trở nên vô giá trị. Bất ổn chính trị, nghèo đói, đói nghèo và thất nghiệp đã được chứng kiến ​​ở nhiều nơi trên đất nước. Năm 1932, Tổng thống mới đắc cử Franklin D. Roosevelt giám sát việc thực hiện các biện pháp khắc phục tình hình bao gồm thành lập Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) được giao nhiệm vụ điều tiết thị trường chứng khoán nước này. Một tổ chức khác, Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang, được giao nhiệm vụ bảo vệ tài khoản của người gửi tiền.