Thông tin quạ phổ biến: Động vật của châu Âu

Mô tả vật lý

Các quạ thông thường, được đặt tên khoa học là Corvus corax, được tìm thấy ở một mức độ nào đó gần như ở khắp mọi nơi trên toàn cầu, mặc dù phần lớn dân số của chúng có thể ở Canada, phía bắc châu Âu, Scandinavia, Trung Á, tiểu lục địa Ấn Độ và Trung và Bắc Mỹ cũng vậy. Nguồn gốc của chúng được cho là ở Thế giới cũ của Châu Âu, Châu Phi và Châu Á. Chúng là những con chim màu đen có kích thước ghê gớm, và dễ dàng được xác định bởi những cái đuôi mang tính biểu tượng của chúng, được tạo thành hình dạng của một cái nêm. Lông vũ được gọi là 'hackles' có thể được tìm thấy ở gốc họng của chúng và chúng thường được sử dụng để tương tác với các loài chim khác. Các tiếng gọi thô ráp của chúng phân biệt chúng với các loài Corvus khác (quạ, quạ và mọt), cùng với hóa đơn mạnh mẽ và các kiểu bay nhào lộn của chúng.

Chế độ ăn

Những con quạ thông thường là những kẻ săn mồi thành công và được biết là sẵn sàng ăn bất cứ thứ gì chúng có thể lấy móng vuốt. Giống như kền kền, chúng không gặp vấn đề gì trong bữa ăn còn dang dở của những kẻ săn mồi lớn hơn như thịt động vật đang phân hủy, đặc biệt là chuột và cá, và các loài chim khác như Great Blue Herons và Rock Pigeons. Côn trùng cũng là loài yêu thích đặc biệt của những con chim này, bao gồm bọ cạp, bướm, châu chấu, giun và ấu trùng của các loài động vật chân đốt khác. Các nguồn thực phẩm khác, có nguồn gốc từ thực vật là quả mọng, ngô và nụ hoa. Đôi khi chúng sẽ ăn phân còn lại của những con sói. Raven cũng nuốt chửng hoa màu của nông dân và thức ăn thừa của con người từ các buổi dã ngoại và cắm trại, cũng như tìm thấy trong các thùng rác và bị bỏ rơi bên ngoài các ngôi nhà.

Môi trường sống và phạm vi

Raven thông thường có thể phát triển mạnh ở bất kỳ môi trường sống tự nhiên nào, cả những nơi xa xôi và hoang dã, và thậm chí cả những nơi nằm gần nhà ở của con người. Chúng đã được tìm thấy sống trên các bãi biển phủ kín, cánh đồng nông nghiệp, đảo và lãnh nguyên, cũng như trong các thảm thực vật dày hơn trong các khu rừng rụng lá và lá kim. Vào thời điểm hiện tại, dân số của những con chim này được ước tính là 20 triệu trên toàn thế giới, và do đó không được coi là một loài có nguy cơ tuyệt chủng hoặc dễ bị tổn thương. Khả năng sống sót và sống tốt giữa con người, cũng như kỹ năng săn mồi của chúng rất ấn tượng và giúp xếp chúng trong số những loài chim kiên cường nhất mà con người biết đến. Hết lần này đến lần khác, chúng bị đuổi ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng thông qua nạn phá rừng và các hoạt động khác của con người, nhưng chúng luôn có thể tìm một nơi khác để sống, nơi chúng dường như luôn phát triển và phát triển về số lượng.

Hành vi

Raven thông thường được biết đến là táo bạo, thông minh và tinh thần cao, mặc dù nhiều nông dân thấy chúng đủ rắc rối để đầu độc, chó săn và bắn. Chúng là những phi công xuất sắc, và có thể thực hiện các cú lộn nhào và nhiều cuộn trong không khí. Các chuyên gia tuyên bố rằng họ có khả năng độc đáo để làm việc cùng với các con quạ khác để tìm giải pháp cho các vấn đề thực phẩm. Bằng chứng về điều này được thấy trong khả năng theo dõi con người của chúng trong việc tìm kiếm thức ăn và các vị trí làm tổ thích hợp. Trong trường hợp họ không thể hoàn thành bữa ăn, quạ đã được biết là lưu trữ thực phẩm ở những nơi khó có thể tiêu thụ nhất sau này. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, những con quạ đủ thông minh để xây dựng tổ của chúng khỏi những kẻ săn mồi, thích các vị trí nằm trên cao trên mặt đất, chẳng hạn như trên các cột điện, vách đá và cầu.

Sinh sản

Quạ là những sinh vật đơn thuần trung thành, và sự giao hợp được bắt đầu bởi những con đực, thông qua việc cúi xuống và lắc đuôi. Khi đến lúc xây tổ, con quạ cái chịu trách nhiệm, mặc dù con đực đôi khi giúp đỡ bằng cách mang theo gậy và xương. Khi tổ được xây dựng theo sự hài lòng của con cái, thường sau chín ngày, sau đó nó đẻ 3 đến 7 quả trứng mà nó ấp trong khoảng 25 ngày. Sau khi nở, những con non ở trong tổ khoảng 7 tuần, sau thời gian đó chúng sẽ rời đi hoặc nán lại với bố mẹ lâu hơn một chút.