Khi nào nước Mỹ tuyên bố độc lập?

Vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, mười ba thuộc địa của Mỹ đã phá vỡ mối liên hệ chính trị của họ với Vương quốc Anh bằng cách tuyên bố độc lập. Tuyên ngôn độc lập được thông qua bởi Đại hội lục địa lần thứ hai tại Tòa nhà bang Pennsylvania ở Philadelphia. Bằng cách tuyên bố độc lập, các quốc gia đã trở thành các quốc gia độc lập.

Bối cảnh độc lập

Trong khoảng thời gian từ năm 1760 đến giữa những năm 1770, các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đã phải đối mặt với những cuộc tranh cãi liên tục với người Anh về các chính sách biên cương và thuế. Các thuộc địa đã tổ chức một số cuộc biểu tình nhưng không ảnh hưởng đến các chính sách. Đế quốc Anh chống lại các cuộc biểu tình bằng cách tuyên bố thiết quân luật ở Massachusetts và tạm dừng hoạt động tại cảng Boston. Các lãnh thổ thuộc địa cũng đã gửi một phái đoàn đến Quốc hội Lục địa để xây dựng kế hoạch về cách tẩy chay hàng hóa của Anh. Sau khi giao tranh nổ ra giữa Lực lượng Anh ở Massachusetts và các thuộc địa, Quốc hội đã tham gia với các nhóm địa phương và bắt đầu phối hợp kháng chiến. Chính quyền địa phương không chính thức bắt đầu tẩy chay và thách thức chính quyền của cấp trên. Bất chấp các hành động, các nhà lãnh đạo thuộc địa hy vọng sẽ đạt được một giải pháp hòa giải với chính phủ Anh. Rất ít thành viên của Quốc hội Lục địa sẵn sàng tuyên bố độc lập. Đến năm 1775, quan điểm của Đại hội lục địa đã thay đổi. Benjamin Franklin, người là thành viên của Ủy ban thư tín bí mật, nói với các cảm tình viên Pháp và châu Âu rằng họ có khả năng tuyên bố độc lập. Benjamin Franklin hy vọng sẽ nhận được viện trợ từ người châu Âu. Trong suốt mùa đông năm 1775, 17177, Quốc hội đã cân nhắc trên con đường phía trước và kết luận rằng hòa giải với Anh không phải là một lựa chọn khả thi. Độc lập là quá trình hành động khả thi và thuận lợi nhất. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1775, Quốc hội Hoàng gia ở Anh đã cấm giao dịch với các thuộc địa, nhưng Quốc hội đã chống lại bằng cách thiết lập các cảng. Động thái này chỉ có tác dụng cắt đứt quan hệ với người Anh.

Lập kế hoạch cho độc lập

Vào tháng 1 năm 1776 Thomas Paine đã xuất bản một cuốn sách nhỏ có tựa đề "Ý thức chung". Các ấn phẩm ủng hộ độc lập đã được lưu hành và đọc bởi hàng ngàn người. Vào tháng 2 năm 1776, các nhà lãnh đạo thuộc địa đã thảo luận về khả năng thành lập một liên minh và bắt đầu soạn thảo Hiệp ước mẫu sẽ thấy các thuộc địa hình thành một liên minh với Pháp. Các thành viên ủng hộ độc lập muốn xác định rằng họ có đủ hỗ trợ trước khi trình bày nghị quyết để bỏ phiếu. Richard Henry Lee đã giới thiệu dự luật độc lập vào ngày 7 tháng 6, nhưng một số thuộc địa tuyên bố rằng họ cần thêm thời gian để cân nhắc. Tuy nhiên, Quốc hội giao nhiệm vụ cho Thomas Jefferson với trách nhiệm đứng đầu một ủy ban sẽ soạn thảo tuyên bố độc lập.

Tuyên bố độc lập

John Adams và Benjamin Franklin đã xem xét bản dự thảo được trình bày bởi Jefferson. Họ bảo tồn dự thảo ban đầu nhưng thực hiện một số thay đổi đối với các đoạn sẽ thu hút sự hoài nghi. Họ đã thay đổi các đoạn văn đổ lỗi cho Vua George III vì đã ủng hộ việc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương và những người mà công dân Anh chứ không phải là chính phủ đế quốc. Vào ngày 28 tháng 6 năm 1776, bản thảo cuối cùng đã được trình bày trước Quốc hội. Vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, Tuyên ngôn Độc lập được thông qua. Năm 1777, nền độc lập của các thuộc địa được tăng cường sau khi được Quốc vương Morocco công nhận. Năm 1778, một Hiệp ước Liên minh với Pháp được ký kết và Hoa Kỳ chính thức độc lập. Năm 1782, Hà Lan công nhận nền độc lập, tiếp theo là Tây Ban Nha vào năm 1783. Cùng năm đó, Hiệp ước Paris được ký kết biểu thị sự kết thúc của Cách mạng Mỹ và sự công nhận độc lập thuộc địa của Anh. Vào ngày 4 tháng 7 hàng năm, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ kỷ niệm Ngày Độc lập.