Sự kiện sư tử biển California: Động vật Bắc Mỹ

Mô tả vật lý

Sư tử biển California (Zalophus californiaianus) là một loài "hải cẩu tai ven biển". Chúng biểu hiện dị hình giới tính, trong đó con đực trưởng thành thường có kích thước cơ thể dài hơn 1, 2 lần và trọng lượng cao gấp 3-4 lần so với con cái. Chúng có kích thước trung bình từ 5, 5 đến 7, 25 feet (1, 7 đến 2, 2 mét ) và trọng lượng trung bình dao động trong khoảng từ 610 đến 860 pounds (275 đến 390 kg). Màu lông của những con vật này khác nhau giữa màu nâu sô cô la ở con đực đến màu nâu vàng ở con cái. Con đực phát triển một đỉnh sagittal ở tuổi khoảng 5 năm, ban đầu xuất hiện như một vết sưng trên đầu. Cơ thể được sắp xếp hợp lý và chân chèo được hình thành tốt của những con sư tử biển này cho phép chúng thích nghi tốt với môi trường sống dưới nước của chúng. Các lớp dày của lớp lót cách nhiệt cơ thể của họ chống lại vùng nước lạnh của Thái Bình Dương.

Chế độ ăn

Sư tử biển California có chế độ ăn cực kỳ linh hoạt với cơ sở con mồi lớn. Điều này thay đổi khi họ thay đổi vị trí của họ. Thông thường, chúng ăn bốn đến năm loài có nhiều tại địa phương, và cụ thể cho bất kỳ khu vực nào. Cá, mực và nghêu là tất cả các phần trong chế độ ăn kiêng của những con sư tử biển này trong hầu hết phạm vi của chúng. Cá mòi Thái Bình Dương, Cá thu Jack, Bạch tuộc đỏ và Cá cơm Bắc là một số loài được các loài động vật này tiêu thụ phổ biến nhất ở khu vực California. Cơ sở con mồi chính của những con sư tử biển ở Biển Cortez dọc theo bờ Mexico bao gồm Plainfin Midshipman, Deepwater Serrano, Pacific Cutlassfish và các loài sinh vật biển địa phương khác. Chúng thường tìm thức ăn dọc theo bờ biển và vùng nước phía trên khu vực thềm lục địa, cũng như mạo hiểm hơn nữa về phía dưới đại dương, mặc dù ít thường xuyên hơn.

Môi trường sống và phạm vi

Những con sư tử biển California sống trong vùng biển của Thái Bình Dương trên thềm lục địa và các khu vực dốc. Chúng thường được phát hiện ở các cửa sông, vịnh và bờ cát hoặc đá của các khu vực bến cảng. Sư tử biển California phát triển mạnh dọc theo bờ biển phía tây của Bắc Mỹ, và đã được phát hiện ở phía bắc như Vịnh Alaska đến tận phía nam như Punta San Pedrillo, Costa Rica. Các tân binh (thuộc địa sinh sản) của những động vật này có thể được quan sát từ các hòn đảo nằm ở Baja California Sur (Mexico) đến những vùng xa hơn về phía bắc ở miền nam California (Hoa Kỳ). Loài này đã được IUCN phân loại theo danh mục 'Ít quan tâm nhất', do quy mô dân số ngày càng tăng và ngày càng tăng. Tuy nhiên, các hoạt động đánh bắt cá vô trách nhiệm, săn trộm và thiên tai, bao gồm các sự kiện thời tiết liên quan đến El Niño, chiếm đóng góp đáng kể vào tỷ lệ tử vong của những con sư tử biển này. Cá voi sát thủ và cá mập lớn là những kẻ săn mồi tự nhiên của loài này.

Hành vi

Sư tử biển California rất thông minh và vui tươi. Chúng có thể ở trên biển khoảng 14 ngày trong một lần kéo dài, trong thời gian chúng di cư hoặc tìm thức ăn, một mình hoặc theo nhóm. Những chuyến đi biển như vậy thường được theo sau bởi các giai đoạn 'lôi ra', khi những con sư tử biển nghỉ ngơi tại các địa điểm cụ thể dọc theo bờ biển. Sau mùa sinh sản, sư tử biển đực trưởng thành và trưởng thành thường di cư về phía bắc, một số đến tận phía bắc như Oregon hoặc thậm chí British Columbia. Tuy nhiên, con cái sẽ tiếp tục tìm kiếm thức ăn ở vùng biển gần với các nhà máy mới. Con cái và con non trải qua lột xác trong mùa thu và mùa đông, trong khi con đực thường lột xác trong tháng một và tháng hai. Sư tử biển California từ lâu đã là đối tượng của nghiên cứu khoa học quan trọng nhờ khả năng nhận thức cao. Các động vật đã được sử dụng phổ biến bởi các rạp xiếc và công viên động vật biển cho mục đích giải trí do khả năng của chúng để nhanh chóng học các thủ thuật biểu diễn. Tuy nhiên, các tổ chức bảo vệ động vật tiếp tục chỉ trích việc sử dụng những động vật này cho các mục đích như vậy.

Sinh sản

Sư tử biển California đạt được sự trưởng thành về tình dục ở khoảng 4 đến 5 tuổi. Sinh sản diễn ra trong những tháng mùa hè từ tháng Năm đến tháng Bảy. Con đực bảo vệ nghiêm ngặt các lãnh thổ của chúng, thậm chí thường nhịn ăn (kiêng thức ăn) để duy trì vị trí của chúng trong các nhà máy mới của chúng. Trong thời gian này, họ phụ thuộc vào blubber của họ như là một nguồn năng lượng được lưu trữ. Con cái chọn bạn tình bằng cách di chuyển từ một lãnh thổ do nam chiếm đóng sang một lãnh thổ khác trong một trại lính. Với thời gian mang thai 11 tháng và chỉ một con duy nhất được sản xuất bởi một con cái trong một năm, tốc độ tăng trưởng của những con vật này khá chậm. Những chú chó con mới sinh được mẹ chúng chăm sóc trong khoảng thời gian khoảng 10 ngày, sau thời gian đó, con cái bắt đầu di chuyển trở lại vùng biển với mục đích tìm kiếm thức ăn. Chúng đôi khi tìm kiếm thức ăn trong 3 ngày, trong khi những con chó con vẫn ở trên bờ và chơi hoặc giao lưu với nhau. Con cái quay trở lại để chăm sóc chó con trong khoảng thời gian ngắn, thường kéo dài không quá một ngày. Giao tiếp giữa mẹ và con là khác biệt đối với mỗi cặp và sau một giai đoạn nhất định, chó con bắt đầu vào vùng biển với mẹ để phát triển kỹ năng tìm kiếm thức ăn của riêng mình. Sư tử biển trưởng thành có rất ít vai trò trong việc nuôi dạy chó con, nhưng cho thấy mức độ tham gia tương đối cao hơn so với con đực của các loài otariid (Eared seal) khác.